NGUYỄN HUY TƯỞNG CÒN VỚI THỜI GIAN
VẤN ĐỀ VÀ SỰ KIỆN
HỒ SƠ BÁO CHÍ
GÓC TƯ LIỆU
Hỗ trợ khách hàng
0909 210 761
Hỗ Trợ Online
Mr. Cường

0909 210 761

Thông tin liên hệ
Điện thoại: 0909 210 761
Email: [email protected]
VIDEO CLIP
Liên kết website
Thống kê truy cập

“KHÓ KHĂN ĐẾN MẤY CŨNG XIN ĐEM HOA VÀO”

( 13-02-2021 - 01:16 AM ) - Lượt xem: 1075

LTS: Năm nay vừa tròn 60 năm ra đời tiểu thuyết Sống mãi với thủ đô (1961), di cảo của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng, xuất bản gần một năm sau ngày ông qua đời. Người Yên Sách xin trân trọng trích giới thiệu Chương 13 của tác phẩm, ghi lại một buổi họp chợ bất thường của chợ Đồng Xuân, sau một loạt sự kiện xảy ra với cuộc đấu tranh bãi thị của chị em tiểu thương và cuộc ném bom trả đũa của Pháp xuống chợ. Đầu đề do biên tập đặt.

Cửa chính của chợ Đồng Xuân mở toang. Người dân khu phố Đồng Xuân chen chúc nhau vào. Cái ngõ ở phố Hàng Chiếu dẫn vào chợ cũng lúc nhúc những người kéo sang. Phố Hàng Khoai cũng đổ tới. Trừ những người hoang mang đóng cửa ở nhà và anh chị em thanh niên đang gấp rút chuẩn bị phòng thủ, còn khá nhiều bà con chưa kịp tản cư, đều có mặt ở đây. Trong giây phút, họ quên những lo âu, sợ hãi đang đè nặng xuống người họ. Họ tới mừng cuộc đấu tranh thắng lợi của chị em chợ Đồng Xuân. Họ tới để gặp nhau sau một cuộc ném bom kinh khủng không ngờ. Và họ tới cũng để khuây khỏa cái nỗi niềm nhớ chợ. Bởi vì đây là trái tim của Hà Nội, là nơi tập trung những hàng tinh xảo của các phố phường, những món ăn vật lạ, những kỳ hoa dị thảo ở khắp các tỉnh đường ngược cũng như đường xuôi. Trong những ngày áp tết, cái tên Đồng Xuân càng vang động trong lòng mọi người. Đi chơi chợ tết trở nên một sự cần thiết như ăn và mặc. Người ta đi không phải chỉ để sắm sửa những thức ngon lành nhất, để thỏa mãn cái đua đòi cầu kỳ sang đẹp của người Thủ đô, mà còn để đón trước, và hưởng sâu cái hương vị của tết nhất đang thấm dần vào cảnh vật, vào người, vào những dãy hàng cam đỏ sáng, những rừng hoa cúc, hoa lan, hoa lay-ơn, hoa hải đường muôn hồng nghìn tía, những cành đào Nhật Tân tươi thắm như còn ở dinh đào, những cây quất của Quảng Bá, Tây Hồ, những chậu cảnh công phu của Nghi Tàm, những hàng su hào, cải bắp, súp-lơ, đua tranh màu sắc với hoa quả. Tất cả hòa hợp trong cái vui rối rít mà vẫn nhịp nhàng của những tranh, những câu đối, những bao hương, bao nến, bao chè, những bánh pháo, những hộp kẹo, hộp mứt, những chậu cá vàng. Tất cả reo lên trong tiếng ồn ào của năm chợ, trong những quần áo đủ màu của hàng trăm hàng nghìn người, từ những tơ len lịch sự của người phụ nữ Hà Nội tô điểm thêm cho hoa tết đến những vải nâu chắc nịch của người nhà quê rụt rè trước những cô hàng kiểu cách lóng lánh hoa tai, phô trương xuyến nhẫn đứng lút sau đống hàng, hoặc khinh khỉnh ngồi xem báo tết. Tất cả như cuốn đi với dòng người trong một không khí vừa tưng bừng, vừa ấm cúng, nhiều màu sắc hơn là ánh sáng, nhiều hương thơm hơn là hơi thở nồng nặc, đông đúc mà vẫn có cái gì trật tự, nhã nhặn và sạch sẽ của Thủ đô. Người ta bận rộn, tíu tít, nhưng người ta cũng lâng lâng, phơi phới, mải miết không muốn trở ra, quẩn quanh mãi trên những lối đi chật chội, mỗi lúc một thêm ướt át, cái ướt át đặc biệt của những buổi cuối năm. Thủ đô có những nơi sang trọng như Tràng Tiền, xinh đẹp như Hồ Gươm, nhưng đông vui nhất vẫn là cái chợ ở vào trung tâm của ba mươi sáu phố phường này, mà cái tên đã đi liền với tên Hà Nội, mà người tứ xứ kéo về Thủ đô đều phải tới thăm nếu không muốn để cho lòng phải ân hận khi trở ra về. Đối với người Hà Nội, và nhất là đối với những người dân phố ở đây, chợ Đồng Xuân là một điểm tự hào.

Nhưng đã hơn một tuần lễ nay, lại vào đúng tháng áp tết, cái nơi đông vui ấy bỗng trở nên tẻ ngắt, suốt ngày hôm nay nó hiu quạnh như một ngôi chùa. Bây giờ nó ủ rũ sau một cơn tàn phá.

Đèn điện thắp sáng trưng trong buổi chiều tối sớm này. Người ta rầm rập kéo vào. Có người kêu lên một cách vừa vui mừng vừa rùng rợn:

- Không có việc gì cả. Chợ lại họp rồi!

Ba anh em Phúc cũng có mặt trong buổi họp chợ lạ lùng này. Đối với họ, ngày thường chợ chả có gì đáng hấp dẫn cả. Bây giờ nó lại có cái nguy hiểm của một nơi vừa bị bắn phá. Nghe thấy mọi người sang thì họ cũng sang. Chẳng còn ai ngăn cấm họ nữa. Cái gia đình vẫn ràng buộc họ đã tản cư rồi. Phúc nhẹ nhàng, chơi vơi trong một không gian mênh mông mà anh mặc sức đi lại. Khi anh vào đến chợ, nhiều thanh niên vác xẻng cuốc đang đứng ở cổng, reo mừng như khi ta chia vui với một người vừa gặp một điều gì may mắn: “Bây giờ thì Phúc tha hồ nhé”. Anh cùng họ bước vào giữa chợ. Cái ý nghĩ sắp được gặp Oanh, mà không phải bị bó buộc như trước nữa, làm cho anh say sưa, ngây ngất. Lan và Hương thì náo nức muốn được biết mặt cô Nhân. Tên cô ta mới nổi lên trong mấy ngày hôm nay, nhưng còn cô ta thì cũng như trăm nghìn chị em Đồng Xuân lúc nhúc chẳng được Lan và Hương để ý đến bao giờ.

Người vào khá đông, nhưng vẫn lọt thỏm giữa cái chợ rộng thênh thang và lạnh lẽo, chơ chỏng những cái cột sắt của năm gian, những cái khung xiêu vẹo của các gian hàng. Những cái bàn dài chạy dọc theo lòng chợ, phản chiếu mập mờ ánh sáng của những ngọn đèn ngơ ngác. Lạc lõng những xâu dài thịt quay treo san sát trên những bàn xi măng nhẵn bóng; những đống su hào, cải bắp, cà chua, những sọt trứng, măng khô, trầu, vỏ... Xào xạc như sợ hãi, tiếng gà, tiếng vịt nổi lên từ trong những lồng ngoài góc chợ. Một cái gì hiu quạnh, xác xơ trùm lên các hàng hóa còn để lại. Không có màu sắc, chợ giống như một cái nhà kho vô vị. Tiêu điều hơn nữa, là khắp nơi trong chợ, bụi cát bám đầy. Trên các bàn, trên các lối, gạch vụn, vôi vữa, lổn nhổn như ở một nơi đang xây dựng. Mươi quả moóc-chi-ê của Pháp bắn vào chợ đã làm lũng hai vòm giữa. Trần bên trong long lở. Trong không khí nặng nề của một buổi chiều mà lòng mọi người đều rối mù, bỗng nổi lên một hồi kẻng buồn buồn của cụ từ bên đền bà Chúa chợ. Người ta tập trung dưới các vòm chính. Có đến hàng trăm người, phần lớn là phụ nữ. Rải rác có những tốp thanh niên, tự vệ. Sù sụ trong một chiếc áo bông the, cụ Vĩnh Phát, bán hàng chiếu ở phố Mới, một người thích nói chữ, thích làm thơ đang nói với một số bà con xúm quanh cụ:

- Sao các vị lại hỏi tôi thế? Đàn bà trẻ con tản cư, chứ mình cũng theo họ thì hỏng cả. Nó bắn phá mặc nó. Trong một đời người dễ mà đã có những ngày như thế này. Nhà tôi mấy đời ở cái đất Hà Nội từ khi chợ Đồng Xuân chỉ lơ thơ có mấy cái cầu lá. Sống nhiều nhục nhiều các vị ạ. Cứ cái tên phố Mới chúng tôi cũng đủ nhục rồi. Ta làm gì có phố Mới. Phố Mới là thằng Giăng Đuy-puy nó đặt khi nó đổ bộ lên, ở cái chỗ Ô Quan Chưởng, rồi nó lập phố lập phường. Nhục mà có được nói ra như bây giờ đâu. Cho nên thấy anh em đục nhà để đánh Tây là tôi mừng lắm. Các chị ở đây bãi thị tôi lại càng mừng. Chỉ có một đêm họ bảo nhau mà hôm nay không một người nào bán rau, bán thịt cho thằng Pháp, tôi cho thế là thần tình. Cụ Hồ là chí thánh mới bảo được dân như vậy. Tôi đã sai thằng nhỏ pha mấy ấm chè sen đem sang đây mừng các chị. Giỏi, giỏi lắm. Hồi còn cái thằng Việc-gi-ti làm đốc lý, chị em Đồng Xuân dám kéo đến sở đốc lý biểu tình đòi giảm thuế chợ, đòi đổi thằng Tây gác cổng Ti-bua. Thằng Việc-gi-ti nó phun vòi rồng vào các bà ướt tuột luột mà vẫn cứ đứng trơ trơ không chịu về. Cũng như hôm nay các bà kéo vào thành đây thôi. Con cháu bà Trưng, bà Triệu có khác chứ. Nó không thả mà được à?

Cụ vuốt râu ngâm một câu thơ:

- Chẳng những trai hay gái cũng tài!

Một chị khăn nhung đen, mặc hàng Bom-bay màu hạt cau, ngoài khoác một cái áo bông cộc, đứng ở trên một cái bàn, vẻ quan trọng của một người đương cuộc, nói giọng đanh đanh, xoe xóe như đang cãi nhau với khách hàng:

- Nó không trả cũng không được với mình kia mà. Bãi thị cho nó một buổi là nó nháo lên rồi kia mà. Cái giống thực dân không có ăn một ngày là tiu nghỉu như chó cụp đuôi ngay ạ. Xà lách, cà chua, cà rốt, thịt lợn, thịt gà, là ở mình cả, mình không bán cho nó thì nó lấy đâu ra mà ăn, lại không cào bụng ra mà chết à. Ta không cần đánh chúng nó bằng súng đạn. Không cần đào hầm đào hố gì cả. Ta chỉ cần đánh nó bằng rau thôi. Ngần ấy thằng chết giẫm một ngày không có rau thì chỉ giỏ dãi ra chứ đánh chác gì. Cứ để cho chúng tôi bãi thị vài hôm là nó chết hết. Chúng nó hèn, chúng nó báo thù, chúng nó định phá chợ. Nhưng chúng nó dọa được ai. Bắn cứ bắn. Bãi thị cứ bãi thị. Chúng tôi không bán được rau cũng vẫn vui lòng. Nó các vàng chị em chúng tôi cũng không thèm đem ra cho nó. Dân ta không có rau không chết. Thằng Pháp không có rau thì thằng Pháp chết.

Cụ Vĩnh Phát cười ha hả:

- Được lắm! Đánh bằng mọi thứ thì chúng nó chóng hàng.

(…)

Bên ngoài có những tiếng reo hò. Người ngoài cổng dẹp cả ra hai bên để nhường lối cho một đoàn phụ nữ lẹp kẹp guốc và dép lộn xộn tiến vào trong chợ. Hương bỗng rú lên:

- Chị Oanh, anh Phúc ơi!

Lan bấm nhẹ vào cánh tay em một cái kín đáo để bảo em đừng nói. Phúc khẽ gật đầu. Anh muốn làm ra vẻ đứng đắn trước mặt hai em. Nhưng trống ngực anh đập mạnh. Anh không bỏ sót một cử chỉ nào của Oanh. Một anh xe chìa tay ra không phải để xin tiền Oanh mà để trả lại tiền.

- Không, cô giữ lấy. Cháu ủng hộ các cô.

Anh ta lẽo đẽo theo sau Oanh nằn nì, và nói váng lên:

- Các cô không thiếu gì tiền. Nhưng việc ủng hộ thì chúng cháu cứ ủng hộ. Cháu nhận thì cháu không phải là cháu nữa.

Giữa lúc ấy thì tiếng hoan hô nổi lên, làm cho cái chợ ồn ào hơn cả mọi ngày thường. Người ta chỉ chỉ trỏ trỏ một thiếu nữ. Người ta kháo nhau: “Cô Nhân! Cô Nhân!” Lan đăm đăm nhìn người thiếu nữ, mang máng như đã gặp ở đâu. Chị thủ thỉ bên tai Hương:

- Trông xinh quá, như Liên ngồi hái cúc.

Vừa nhìn Nhân, Lan vừa nhớ lại một bức tranh hồi xưa đã phải xem vụng vì bà giáo cấm. Chị khăn nhung đã nhảy tới dắt Nhân lại gần cái bàn chị ta đứng lúc nãy. Người ta xúm xít hỏi mấy chị bị bắt sáng ngày và cũng vừa mới vào cùng với Nhân. Cụ Vĩnh Phát và nhiều bà con trong phố đi tới từng người mời uống nước chè và ăn bánh ngọt. Một bà chủ hiệu bánh ngọt ở Hàng Đường nói:

- Chúng tôi xin ủng hộ các chị một hòm bích qui!

Sỹ hoa chân múa tay, hô át cả tiếng mọi người:

- Hoan hô tinh thần của chị em chợ Đồng Xuân!

Chị khăn nhung đen đã đẩy được Nhân đứng lên bàn. Mọi tiếng động đều im bặt. Người ta chăm chú đợi người thiếu nữ nói chuyện. Nhân có vẻ mệt mỏi. Cảm động vì sự đón tiếp niềm nở của nhân dân, Nhân ứa nước mắt. Đôi mắt Nhân đen nhánh và mơ màng. Nhân ấp úng mấy câu:

- Chúng em chẳng biết nói gì, chỉ xin có lời cảm ơn các cụ, các ông, các bà, các anh, các chị...

Nhân ngẩn người, nhìn chị khăn nhung đen, lườm một cách tinh nghịch và nũng nịu, nhoẻn một nụ cười trên cái miệng xinh tươi, để lộ hàm răng đen rưng rức. Chị đưa bàn tay lên che cái mặt đỏ hồng, thẹn thò nhảy xuống đất, chúi đầu vào đám chị em và chạy. Người ta đẩy Nhân lại. Nhân đã len tới gần Lan, nói một mình: “Ngượng quá, chả biết nói thế nào”. Lan thấy cô ta thật dễ yêu, và lấy làm lạ sao cô ta dút dát như thế mà dám cả gan vào tận trong thành. Oanh cũng vừa bước tới. Chị trông thấy Phúc và Lan, Hương, nhưng chỉ mỉm cười. Chị khẽ bảo Nhân:

- Thôi Nhân mệt, về nghỉ nhé. Việc gì mà sợ.

Tay Oanh hất cái búi tóc đang mắc vào trong cái cổ áo măng-tô tím, và nắn lại cho nó gọn ghẽ. Oanh thuộc về loại phụ nữ có cái thân hình cân đối đền bù cho một vẻ mặt bình thường. Oanh không đứng lên bàn, nhưng tiếng nói của chị gãy gọn mọi người đều nghe rõ.

(…)

Nhân như nhớ ra một điều gì, chạy đến rỉ tai Oanh. Người nữ cán bộ gật đầu, đẩy Nhân lên trước mặt mình và nói:

- Chị Nhân xin nói thêm.

Mặc dầu người ta ầm ầm giục Nhân đứng lên bàn, nhất là đám thanh niên đang còn muốn ngắm cái vẻ đẹp ngây thơ của cô thiếu nữ Ngọc Hà, Nhân vẫn đứng dưới đất. Nhân nói:

- Chúng em bãi thị với giặc, chứ không bãi thị với nhân dân. Chúng em xin hứa là tiếp tế chu tất.

- Nếu tác chiến thì có tiếp tế hoa không? - Một thanh niên hỏi nửa đùa nửa thực.

- Nếu các anh cần thì khó khăn đến mấy chúng em cũng xin đem hoa vào. Về phía các anh thì chúng em mong sẽ giết cho được nhiều giặc.

Những tiếng vỗ tay hoan nghênh người thiếu nữ nổi lên mạnh mẽ hơn cả lúc các chị mới vào. Lan và Hương mắt không rời Nhân. Lan nói khẽ với Hương:

- Nếu cô ấy mặc tân thời thì đẹp lắm, Hương nhỉ…

NGUYỄN HUY TƯỞNG

Các Bài viết khác